Hermann Hesse (1877-1962)
Hermann
Hesse là một đại văn hào Đức của thế kỷ XX. Năm 1946 ông đã
nhận giải Nobel về văn chương qua tác phẩm Das Glasperlenspiel (The
Glass Bead Game, Trò chơi những viên ngọc thủy tinh)
Tán
dương tuổi già là tên một quyển sách nhỏ (loại bỏ túi) tóm lược những
tư tưởng tốt đẹp, lạc quan và có tính chất triết lý sâu xa của người
già. Đó là những dòng suy tư, những tiếng lòng đã được văn hào Hermann
Hesse gôm góp lại từ một số tác phẩm nổi tiếng của ông trong giai đoạn
cuối đời …
Tán
dương tuổi già đã được Alexandra Cade dịch ra Pháp ngữ với tựa đề Éloge
de la Vieillesse (livre de poche) do Editions Calmann- Levy xuất bản
năm 2000. Bản dịch Anh ngữ là Elegy to Old Age (paperback).
Tán
dương tuổi già đã đem đến cho người đọc một ngọn gió làm mát tâm hồn và
đồng thời cũng giúp chúng ta, những người cao niên tăng thêm niềm lạc
quan, tự hào và nghị lực để có thể vững bước trong giai đoạn cuối của
cuộc đời.
*******
Bìa sách “Tán Dương tuổi già”-Hermann Hesse
.
*Nét
duy nhất dành cho người thật già là họ có được tự do trong hành động,
đồng thời họ cũng có nhiều kinh nghiệm và một tấm lòng dạt dào tình nhân
ái yêu thương. Người già có khuynh hướng đối xử một cách dễ dàng với
người trẻ tuổi non kinh nghiệm.
Nhưng tuổi già thường có khuynh hướng cố ý bắt chước những cử chỉ và thái độ của tuổi trẻ.
Người
già không phải là người có ít giá trị hơn người trẻ. Lão Tử không phải
kém giá trị hơn Đức Phật. Màu xanh dương không thể xem là xấu hơn màu
đỏ.
Tuổi già trở nên tầm thường xoàng xĩnh khi nó mang những vẻ của tuổi trẻ.
(Les gens qu’on peut imaginer vieux, page 46).
Le
seul attribut réservé aux plus vieux est le pouvoir de manier avec plus
de liberté, d’aisance, d’expérience et de bonté la faculté d’aimer. Les
gens vieux ont facilement tandance à traiter les jeunes de blancs-becs,
mais la vieillesse elle-même imite toujours volontiers les gestes et
les attitudes de la jeunesse.
La
vieillesse n’a pas moins de valeur que la jeunesse, Lao Tseu n’a pas
moins de valeur que Bouddha. Le bleu n’est pas plus laid que le rouge.
La vieillesse ne devient médiocre que lorsqu’elle prend des airs de jeunesse.
*Khi
tuổi đời đã cao, tốt hơn hết chúng ta cần nên có tinh thần biết hài
hước, biết mĩm cười và đừng xem chuyện đời là quá nghiêm trọng. Nên
chuyển đổi tất cả các cảnh tượng trên thế gian thành một bức tranh vân
cẩu qua đó chúng ta có thể ngắm nhìn sự đổi thay của kiếp nhân sinh như
sự ẩn hiện của những đám mây trong bầu trời hoàng hôn. (Le pathos, page 50).
Lorsqu’on
est plus âgé, il convient davantage d’avoir de l’humour,de sourire, de
ne pas prendre les choses au sérieux; il faut transformer le spectacle
du monde en un tableau, observer les choses comme s’il s’agissait des
jeux furtifs des nuages dans le ciel du soir.
*Thật
vậy, tuổi già tự nó là một tiến trình tự nhiên. Một người 65-75 tuổi có
thể là khỏe mạnh và bình thường không khác gì một người ở vào lứa tuổi
30 hoặc 50 với điều kiện là các cụ không nên tạo cho mình một cảm tưởng
trẻ hơn. (Le pathos, page 50-51)
*Tuổi
già là một giai đoạn trong cuộc đời. Nó có bộ mặt riêng biệt, một bầu
không khí và một khung cảnh cá biệt cùng những vui buồn khổ đau của nó.
Người già bạc đầu,cũng như người trẻ, chúng ta đều có nhiệm vụ tạo cho
cuộc đời mình được thêm phần ý nghĩa.
Tuổi già tượng trưng cho một nhiệm vụ cao đẹp và thiên liêng chẳng khác gì tuổi trẻ.
Một
người cao tuổi, tóc đã bạc phơ nhưng lại lo sợ già và sợ chết là người
không xứng đáng sống trong giai đoạn mà họ đang đạt được chẳng khác gì
một người trẻ tuổi, tràn đầy sinh lực nhưng lại chán ghét nghề nghiệp,
công việc làm hằng ngày của anh ta và tìm cách trốn tránh né đi. (De la vieillesse, page 64)
*Ai cũng biết rằng tuổi già mang theo nhiều nỗi đớn đau và cái chết đang chờ đón chúng ta ở cuối đường.
Tuy
nhiên, chúng ta không nên buồn rầu trước sự suy tàn dần dần của thể xác
mà không nhận thấy tuổi già cũng có những khía cạnh tốt đẹp, những lợi
điểm, những nguồn an ủi cũng như những niềm vui của nó. (De la vieillesse, page 65)
*Món
quà trân quý nhất của chúng ta là kho tàng hình ảnh còn đọng lại trong
ký ức sau một đoạn đường đời dài đăng đẳng và khi tuổi mòn sức yếu,
chúng ta thường quay nhìn vào đó với một sự quan tâm mới lạ. (De la vieillesse, page 66)
Le
présent le plus cher à mon cœur est le trésor d’images que nous gardons
en mémoire après une longue vie et vers lequel nous nous tournons avec
un nouvel intérêt lorsque notre activité đécroit.
*
Trong mảnh vườn của tuổi già rực nở ra những loài hoa mà ngày xưa chúng
ta không hề nghĩ tới việc đem trồng. Cây quý phái đã đơm hoa kiên nhẫn.
Tâm ta trở nên thanh tịnh và khoan dung hơn. Khi lòng hăng say muốn can
thiệp và hành động của chúng ta càng giảm đi thì khả năng quan sát,
lắng nghe thiên nhiên và con người lại càng tăng thêm. (De la vieillesse, page 67).
Dans
ce jardin de la vieillesse s’épanouissent des fleurs que nous aurions à
peine songé cultiver autrefois. Ici fleurit la patience, une plante
noble. Nous devenons paisibles, tolérants et plus notre désir
d’intervenir, d’agir diminue, plus nous voyons croître notre capacité à
observer, à écouter, la nature aussi bien que les hommes.
*Người
trẻ tuổi, chưa có ý thức, quá tự tin vào sức mạnh của họ nên hay cười
đùa ngạo mạn sau lưng chúng ta về bước đi gập gềnh, không vững chắc, mái
tóc bạc phơ, cái cổ gầy ốm và nhăn nheo của người già; Tất cả việc đó
đã làm chúng ta nhớ lại ngày xưa mình cũng bị thôi thúc bởi cùng một
động lực, và cùng một tâm trạng như thế và mình cũng mĩm cười.
Nhưng
ngày nay thay gì mang tâm trạng thấp kém và thất bại, chúng ta hân hoan
vui mừng vì đã vượt qua dược giai đoạn đó trong cuộc đời, đã gặt hái
được thêm một ít khôn ngoan và kiên nhẫn.(De la vieillesse, page 68).
Lorsque
les tout jeunes gens, encore inconscients sentant uniquement la
supériorité đe leur force, rient dans notre dos, s’amusent de notre
démarche mal assurée, de nos quelques cheveux blancs, de notre cou
maigre et ridé, nous nous souvenons qu’autrefois, habités par la même
force et tout aussi inconscients, nous avons souri nous aussi. Mais au
lieu d’éprouver à présent un sentiment d’infériorité et de défaite, nous
nous réjouissons d’avoir franchi cette étape de notre vie, d’avoir un
tout petit peu gagné en sagesse et en patience.
*Tuổi
già là cội nguồn của bao nhiêu là nỗi đớn đau, nhưng đồng thời cũng của
biết bao là vẻ đẹp. Để đối phó với các khổ ải của cuộc đời, trong ta đã
nẩy sinh ra sự lãng quên, sự mệt mỏi và lòng nhẫn nhục. Tất cả có thể
được biểu hiện ra bằng những hình thức như thái độ buông xuôi, lòng chai
đá và thờ ơ vô lường. Nhưng nhìn dưới một ánh sáng hơi khác thì đây là
sự thanh tịnh, sự kiên nhẫn, tính hài hước, ở mức độ khôn ngoan cao cả
của Lão giáo. (La vieillesse est source, page 71).
La
vieillesse est source de bien des douleurs, mais de bien des grâces
aussi.Pour nous mettre à l’abri de nos problèmes et de nos souffrances,
elle fait naître en nous l’oubli,la fatigue et la résignation. Cela peut
prendre la forme de l’indolence, de la sclérose, d’une indifférence
atroce : mais sous l’ éclairage légèrement différent d’un autre instant,
cela peut apparaître comme la tranquilité, de la patience, de l’humour,
un degré élevé de sagesse, le Tao.
*Tuổi
già giúp chúng ta vượt qua biết bao là hoàn cảnh. Khi một cụ già lắc
đầu hay than thở một việc nào đó, có người thì cho đó là biểu thị của
một sự khôn ngoan sáng suốt, còn kẻ thì cho đó là dấu hiệu của sự già
nua. (La vieillesse est source, page 72).
*Chỉ
khi về già chúng ta mới nhận thấy rằng nét đẹp của tạo hóa rất ư là
hiếm hoi. Chúng ta mới cảm nhận được sự nhiệm mầu của một đóa hoa hé nở
giữa khung cảnh điêu tàn đổ nát vương vãi các khẩu đại bác, sự tồn tại
của các tác phẩm văn chương giữa các trang báo và các tỷ giá hối đoái.(La vieillesse est source, page 71).
C’est
seulement en vieillissant que l’on s'aperçoit que la beauté est rare,
que l’on comprend le miracle que constitue l’épanouissement d’une fleur
au milieu des ruines et de canons, la survie des œuvres littéraires au
milieu des journaux et des cotes boursières.
*Kể
cả trong những lúc không nghi ngờ, người già vẫn mãi lo tìm về quá khứ,
về những gì đã bị đánh mất đi một cách vĩnh viễn rồi. Nhưng thật ra
chả có gì là mất, chả có gì thuộc về quá khứ cả vì trong một vài hoàn
cảnh chẳng hạn như qua văn chương, những vật đánh mất có thể được tìm
thấy trở lại và chúng được khấu trừ mãi mãi khỏi thời quá khứ. (Le goût pour les habitudes établies et la répétition, page 142)
Même
lorsqu’ils ne s’en doutent pas,les gens âgé sont à la recherche du
passé, de ce qui semble irrémédiablement perdu et qui pourtant n’est ni
perdu ni forcément passé, car dans certaines circonstances, par exemple à
travers la littérature, ces choses peuvent être retrouvées,soustraites
pour toujours aux époques révolues.
*Lúc già và khi đã chu toàn xong nhiệm vụ thì chúng ta có quyền tiếp cận cái chết trong sự yên lặng. (La vérité, page 144).
*Mọi
hành trình nhằm mục đích đưa ta vào buổi sáng ban mai hay vào đêm tối
tĩnh mịch, đều dẫn đến cõi chết, một sự tái sanh đau đớn mà linh hồn rất
e ngại.
Nhưng
khi đến được cuối hành trình, tất cả đều phải chết, đều tái sanh vì Mẹ
vĩnh cửu luôn luôn đưa chúng ta trở lại cuộc sống đời đời.(Nous avons enduré maladies et souffrances, page 152)
Tout
cheminement, qu’il ait pour but le soleil ou la nuit, aboutit à la
mort, à une renaissance douloureuse que l’âme craint. Mais les hommes
font le chemin, tous meurent, tous renaissent car la Mère éternelle les
ramène infiniment à la vie.
Nguyễn Thượng Chánh, DVM
Đọc thêm.
- Paul Van- Tuổi già là thời sung sướng nhất
http://nguoivietboston.com/?p=25918
. -Nguyễn Thượng Chánh
*Làm chậm lại lão hóa
http://vietbao.com/a227191/lam-cham-lai-lao-hoa
*Tuổi già trên đất lạ
http://vietbao.com/a226599/tuoi-gia-tren-dat-la
No comments:
Post a Comment