Hàn
Lâm Viện Nhãn Khoa khuyên bịnh nhận 40-65 tuổi nên đi khám mắt ở bác sĩ
chuyên môn (ophthalmologist) cứ 2 đến 4 năm một lần dù không có bịnh,
trên 65 tuổi nên khám một lần mỗi năm là ít nhất, có thể thường hơn.
Lý do :
Những
thay đổi mắt ở người già xảy ra rất chậm, từ từ, làm bịnh nhân thích
ứng với hoàn cảnh mà không để ý, không biết rằng mắt mình mờ hơn trước,
hoặc thị trường (visual field) của mình bị thu hẹp lại, mình không còn
thấy rõ những gì xảy ra ở ngoại biên tầm mắt mình, màu sắc các sự vật
mình thấy không trung thực (ví dụ màu trắng mình tưởng là vàng), đêm tối
lái xe, đèn phía trước chiếu vào mắt mình lóa không thấy rõ . Bác sĩ
chuyên khoa mắt sẽ khám thấy những thay đổi đó và sẽ có những biện pháp
thích hợp để chữa trị (như cho đeo kính để điều chỉnh khúc xạ mắt
(refraction correction), giải phẫu hay cho thuốc trị chứng cườm nước làm
cao áp suất trong mắt, ngăn chặn những tổn thương có thể xảy tới cho
mắt, giải phẩu lấy cườm và thay thế bằng thấu kính nhân tạo/artificial
lens, giúp tránh tai nạn cho người lái xe)
Tôi bị bịnh tiểu đường, mắt tôi không sao cả, tại sao bác sĩ bắt tôi đi khám mắt?
Bịnh
tiểu đường, còn gọi là bịnh Đái tháo đường (diabetes mellitus) không
phải chỉ có chứng đường được thải ra nước tiểu mà còn ảnh hưởng đến hầu
hết các bộ phận trong cơ thể người bịnh. Mắt là bộ phận bị ảnh hưởng
nặng do bịnh đái đường.
Bịnh võng mạc do tiểu đường (diabetic
retinopathy), làm hư hại võng mạc (là cái màng phía sau tròng mắt, nơi
nhận hình ảnh do ánh sáng từ ngoài mắt chiếu vào), là lý do hàng đầu gây
ra bịnh mù ở người lớn.
Bệnh nhân cần được bác sĩ mắt nhõ thuốc làm nở con ngươi và khám võng mạc kỷ lưỡng (annual dilated fundoscopic examination).
và chữa trị, theo dõi kỹ lưỡng nếu bất bình thường.. Ngoài ra, mổ cườm
khô cho người tiểu đường dễ có biến chứng hơn ở người không tiểu đường.
Người bị tiểu đường cũng dễ bị cườm nước (glaucoma) hơn.
Mắt tôi bị cườm khô (cataract), muốn mổ nhưng nhiều người bạn nói mổ xong vẫn thấy mờ, vẫn mang kính mà không rỏ.
Vậy có cần mổ không?
Cataract, hoặc cườm khô, là trường hợp thấu kính (lens) của mắt bị vẫn đục, cản trở ánh sáng từ ngoài vào rọi trên đáy mắt (retina).
Muốn
thị giác toàn hão, ngoài việc thấu kính phải thông suốt, cần phải có
một võng mạc (đáy mắt, retina) làm việc tốt (ví dụ không bị hư hoặc kém
đi do đã bị thoái hóa vì tuổi già, hoặc hư vì bịnh tiểu đường như nói ở
câu trả lời trên), và luôn những phần khác của hệ thần kinh phải nguyên
vẹn.. Cho nên, mổ mắt lấy cườm sẽ làm thị giác tốt hơn trước,
thấy rõ hơn trước khi mổ, nhưng không nhất thiết là sẽ 20/20 (tối hảo)
vì còn tùy thuộc các yếu tố khác của mắt và hệ thần kinh người bịnh.
Ngoài
ra, nếu bị cườm khô (cataract), bác sĩ mắt không nhìn thấy rõ phần sau
của mắt nên không theo dõi và chữa trị được những bịnh của võng mạc
(retinopathy). Lấy cườm khô ra giúp cho công việc chăm sóc của mắt dễ dàng và tốt hơn.
Thế tại sao mổ cườm khô rồi mà vẫn mang kính (mang gương)?
Ở
người trẻ bình thường, không cần mang kính cũng thấy rõ vật ở thật xa
(vô tận, infinity) cũng như vật ở gần (đọc sách chữ nhỏ.. Sở dĩ được như
vậy vì thấu kính (lens) trong mắt người trẻ có khả năng thích ứng
(accommodation), thay đổi tính khúc xạ của nó (tựa như máy hình hiện đại
có thể tự động zoom xa và gần).
Thấu
kính nhân tạo (thế thấu kính bịnh đã đục) không có khả năng thích ứng
theo nhu cầu nhìn xa nhìn gần này, nên phải lựa chọn giữa một loại thấu
kính nhìn gần và một loại thấu kính nhìn xa. Thường thì , khi mổ mắt
cườm khô, một bên mắt thì bác sĩ gắn thấu kính nhìn gần, mắt kia thì bác
sĩ gắn thấu kính nhìn xa để bịnh nhân có thể sinh hoạt bình thường mà
không cần đeo kính (mang gương). Tuy nhiên, những trường hợp như đọc
sách chữ nhỏ, kéo dài, bịnh nhân cũng cần mang kính để mắt đỡ mệt và
thấy rõ hơn.
Những
tiến bộ trong vòng chừng mười năm nay của khoa giải phẩu chữa bịnh
khúc xạ (refraction surgery) dùng laser để trị chứng cận thị , hay dùng
thấu kính nhân tạo trong mắt (intraocular lens) để trị chứng viễn thị
nặng giúp cho một số người cận thị (thấy gần mà không thấy xa) và viễn
thị (thấy xa mà không thấy gần) khỏi cần mang kính nữa. Những tiến bộ
này được áp dụng cho những người mổ mắt vì cườm khô cũng được hưởng
những lợi ích đó, là thêm vào việc mắt họ sáng ra (vì hết bị đục), mắt
họ còn được chữa các vấn đề khúc xạ (refraction errors), giúp cho họ
khỏi nhờ cậy đến các kính dày cộm sau khi mổ, nhưng có thể cần mang kính
một đôi khi.
Mắt tôi hay bị “chèm nhem”, bác sĩ cho nhỏ thuốc là nước mắt nhân tạo, tôi nhỏ vài hôm thì khỏi, sau bây giờ vẫn bị lại như cũ?
Sở
dĩ mắt chúng ta luôn luôn trong sáng vì nước mắt được tiết ra liên tục,
giữ cho mắt ướt và có tác dụng ngăn chặn nhiễm trùng, đồng thời hệ
thống ống dẫn thải nước mắt (tear duct) dư đi vào mũi ở phía dưới.
Người
gìà, tuyến nước mắt làm việc kém đi, nhất là nếu mắc những bịnh làm
giảm sút cơ năng hạch nước mắt, vì vậy mắt bị khô, nhất là lúc xem TV
chăm chú, đọc sách lâu mà ít chớp mắt (“nhìn không chớp”).
Do đó, mắt bị xốn, do phản xạ, nước mắt lại sản xuất tăng lên, chảy đi không kịp làm nhòa, nhòe mắt.
Dùng nước mắt nhân tạo có ích cho trường hợp này nhưng phải dùng thường xuyên, không phải bớt triệu chứng rồi ngưng..
Ngoài ra, nên nhớ chớp mắt thường xuyên lúc đọc sách, xem phim, mang kính mát hoặc tránh chỗ gió nhiều làm khô mắt nhanh hơn.
Một
số trường hợp, bác sĩ chuyên khoa mắt có thể gắn một nút (plug) bằng
plastic vào kênh dẫn nước mắt để giữ nước mắt lại cho mắt đở khô.
ST
No comments:
Post a Comment